Chùa, Đền Phả Lại

- Lịch sử hình thành

Tương truyền khi thiền sư Dương Không Lộ tịch, dân lập đền thờ phía sau chùa gọi là đền Thánh Tổ hay đền Thượng và khi thiền sư Nguyễn Minh Không mất, dân lập đền thờ ở dưới chân núi gọi là đền Hạ.

Chùa Phả Lại có tên chữ là “Cổ An tự” sau đổi là “Thiên Phúc tự”. Theo “Bắc Ninh sử ký” chùa xưa có 100 gian, thời Lý Thần Tông được xây dựng trên ngọn núi Phả Lại rộng hơn 40 mẫu bao gồm: Chùa phật, chùa Hộ, chùa Am, tam quan nội, tam quan ngoại, điện kính thiên, gác chuông, gác trống, tăng thất, nhà khách... Trụ trì chùa Phả Lại là hai thiền sư tài giỏi Dương Không Lộ và Nguyễn Minh Không. Núi chùa Phả Lại là nơi phong cảnh đẹp nổi tiếng còn được lưu truyền qua các áng thơ văn cổ.

Thời kỳ kháng chiến chống Pháp đền, chùa Phả Lại bị phá hủy, đến năm 1958 nhân dân địa phương xây dựng lại đền chùa liền kề nhau trong một quần thể di tích nối liền nhau gồm 2 tòa : 5 gian Tiền đường và 3 gian Tiền tế nối với 2 gian Hậu cung để thờ tự.

Đến năm 2014 thay bộ cửa lim với tổng kinh phí 400 triệu, năm 2018 trùng tu lại toàn bộ đền, chùa với tổng kinh phí lên đến 1,3 tỷ đồng trong đó nhà nước hỗ trợ 300 triệu đồng.

Đền, chùa Phả Lại được nhà nước xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia, Quyết định số 100 VH/QĐ ngày 20/01/1989.

- Cảnh quan môi trường, đất đai

Đền, chùa Phả Lại tọa lạc trên một khu đất cao và thoáng, có tổng diện tích 594,0 m2, nằm trên đỉnh núi ở Phía Nam của làng, di tích quay hướng Nam. Phía Tây và Nam giáp đường làng, các phía còn lại giáp khu dân cư.

- Các công trình kiến trúc

Hiện nay Đền, Chùa Phả Lại nằm trên đỉnh núi Phả Lại bao gồm các công trình kiến trúc như: Tiền đền, trung đền, hậu đền, nhà tổ, nhà mẫu và các công trình phụ trợ khác.

Tiền đền có quy mô 4 gian, kiến trúc kiểu 4 mái đao cong, bờ nóc xây trát đơn giản, chính giữa trang trí lưỡng long chầu Nguyệt, mái lợp ngói mũi,mở cửa cả 4 gian kiểu thượng song hạ bản. Bộ khung nhà tiền đền được liên kết bởi 5 hàng cột dọc, 4 hàng cột ngang, gồm 3  bộ vì chính sử dụng chất liệu hiện đại, riêng hoành, rui sử dụng chất liệu gỗ, kết cấu vì nóc kiểu giá chiêng, vì nách kiểu kẻ ngồi đắp vẽ đơn giản.

Trung đền có quy mô 4 gian kiểu tường hồi 2 mái, trung đền nằm thông với tòa tiền đền ở phía trước và hậu đền ở phía sau, bờ nóc xây trát đơn giản, mái lợp ngói mũi, trung đền có kết cấu kiến trúc kiểu quá giang gác tường, sử dụng chất liệu truyền thống bào trơn đóng bén đơn giản.

Hậu đền có quy mô 2 gian kiểu tường hồi bít đốc, kết cấu kiến trúc kiểu quá giang gác tường, sử dụng chất liệu truyền thống bào trơn đóng bén đơn giản.

- Nhân vật được thờ

Chùa Phả Lại là nơi thờ phật. Song đặc biệt hơn là nơi đây thờ hai vị quốc sư triều Lý có công chữa bệnh cho Lý Nhân Tông và Lý Thần Tông là Dương Không Lộ và Nguyễn Minh Không.

- Các hiện vật tiêu biểu

03 bia đá thời Lê

01 long đình thời Nguyễn

01 bát biểu thời Nguyễn

01 mâm bồng thời Nguyễn

01 tượng thân phụ Minh Không thời Nguyễn

01 tượng thân mẫu Minh Không thời Nguyễn

01 bộ tượng Tam thế thời Nguyễn

01 tượng Adida thời Nguyễn

01 tượng Quan âm Tống tử thời Nguyễn

- Di sản văn hóa phi vật thể gắn với di tích

Xưa lễ hội ở đền chùa Phả Lại diễn ra từ ngày mùng 8 đến 15 tháng Tám hàng năm (là ngày giỗ của quốc sư Dương Không Lộ) trong đó có tục rước nước rất đặc sắc. Để chuẩn bị lễ rước nước, dân làng phải lựa chọn người tham gia đám rước, phải là những trai tráng khoẻ mạnh, tuổi từ 18 đến 30 nhà không có tang, lý lịch phải trong sạch (không trộm cắp...), phải là trai đinh trong làng, con rể và khách thập phương không chọn, phải tắm rửa sạch sẽ tinh khiết, đám rước gồm: 10 người cầm cờ thần đi đầu, 4 người khiêng choé đựng nước, 6 người khiêng long đình, 8 người cầm bát bửu, xà mâu, 8 người khiêng kiệu bát cống, 4 người khiêng chống và chiêng, 01 người cờ đầu, 02 người cờ sai dẹp đường, 01 người cầm loa chấp hiệu, 8 người trong đội bát âm, 01 ông trống khẩu, 01 ông chủ tế, 01 ông Đông xướng, 01 ông Tây xướng, 10 người trong đội hợp tế.

Ngày 12 gọi là ngày mở cửa khám. Mở cửa khám do dân hai làng Phả Lại và Đông Pheo (xã Đại Phúc ngày nay) mở. Tiếp theo đó dân làng làm lễ bao sái (tắm rửa thay quần áo cho đức thánh tổ). Tiếp sau là công việc kể kệ, đọc sự tích thánh tổ cho tới hết ngày.

Ngày 14 dân làng Phả Lại tổ chức lễ rước nước. Các đội kể trên tuần tự vào đội hình rước từ đền, chùa Phả Lại tới vực Chuông (khu vực ngã ba sông Cầu) cách chùa khoảng 1km. Tới ngã ba, tất cả các thuyền rước quay ba vòng.

Đội rước choé múc nước sông vào choé rồi bơi thuyền rước về đền.

Về tới cửa đền - lại làm lễ rồi đưa choé nước vào chỗ quy định để dùng cho việc báo sái năm sau.

Ngày nay lễ hội tổ chức đơn giản hơn, chủ yếu là tế lễ tại đình.

Ngoài phần lễ, phần hội có các trò chơi dân gian như cờ tướng, đu quay, chọi gà… tổ chức thể thao, văn nghệ.

Ngoài ra từ mùng 01 tới 03 tháng Mười Một: do dân đặt thành lệ, quy mô nhỏ hơn, không có rước nước, mà chỉ có làm lễ cuối năm và bàn giao công việc cho ban khánh tiết mới chuẩn bị cho hội tháng Tám năm sau.

- Công tác bảo vệ, phát huy giá trị di tích

Chính quyền đã thành lập Ban quản lý di tích theo Quyết định số 242 ngày 11 tháng 6 năm 2014 của UBND tỉnh Bắc Ninh.

Di tích vẫn luôn được nhân dân quan tâm bảo vệ, trùng tu, tôn tạo ngày càng khang trang tố hảo. Hàng ngày các cụ trong hội người cao tuổi vẫn thay phiên nhau bảo vệ, quét dọn và hương khói.

Những ngày hội và sự lệ được chính quyền và nhân dân địa phương tổ chức tốt, tạo không khí vui tươi phấn khởi trong nhân dân. Di tích có tường bao bảo vệ, được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Trong công tác bảo vệ phát huy giá trị còn có những hạn chế như:

Năm 2015 nhân dân địa phương tự ý xây dựng ngôi chùa mới nằm trong khuôn viên di tich mà chưa có sự đồng ý của các cơ quan có thẩm quyền.

Các hạng mục công trình có quy mô nhỏ chưa đáp ứng được không gian sinh hoạt tâm linh tín ngưỡng của nhân dân địa phương.

Lối vào di tích lòng vòng, đường nhỏ hẹp, rất bất tiện mỗi khi có sự lệ.

Di tích chưa được lắp đặt hệ thống camera giám sát, chưa có thiết bị phòng cháy chữa cháy, công trình vệ sinh đạt chuẩn.

- Đánh giá giá trị di tích

 Đền, chùa Phả Lại còn bảo lưu được rất nhiều hiện vật có giá trị từ thời Lê - Nguyễn, là nguồn tư liệu quý cho quá trình nhiên cứu về lịch sử di tích cũng như truyền thống văn hóa, phong tục tập quán của nhân dân địa phương.

- Phân loại di tích

Di tích thuộc loại hình: Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật.