Đền, Đình Hán Đà
1. Đình Hán Đà
- Lịch sử hình thành:
Hiện nay tại địa phương không còn bảo lưu được tài liệu nào ghi chép chính xác về thời gian xây dựng đình. Theo các cụ cao niên cho biết đình Hán Đà được khởi dựng từ lâu đời, nhưng bị phá huỷ trong kháng chiến chống Pháp, hoà bình lập lại (năm 1954) nhân dân địa phương xây dựng lại ngôi đình trên nền đất cũ. Đến năm 2010, đình được trùng tu lại toàn bộ và xây cổng nghi môn khang trang như hiện nay.
Đình Hán Đà được Bộ Văn hóa Thông tin xếp hạng là di tích lịch sử văn hoá - Quyết định số 154/QĐ - BVHTT, ngày 25/01/1991.
- Cảnh quan môi trường, đất đai.
Đình hiện toạ lạc ở giữa trung tâm của thôn, mặt quay hướng Tây Bắc, phía trước là ao đình, ba mặt còn lại tiếp giáp với khu dân cư, không gian thoáng đãng, thâm nghiêm. Đình có 1.573m2, đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Theo hồ sơ xếp hạng lập năm 1990, tổng diện tích đất khoanh vùng bảo vệ di tích Đình Hán Đà là: Khu vực I (tô màu đỏ) là : 2.101 m2; khu vực II (tô màu xanh) là 1.931 m2.
- Các công trình kiến trúc
Hiện đình Hán Đà có kiến trúc kiểu chữ Công, gồm:
Đại đình 3 gian 2 chái, 4 mái đao cong. Ống muống 3 gian, toàn bộ bằng chất liệu bê tông cốt thép. Hậu cung 3 gian 2 chái, bộ khung bằng gỗ, được bảo lưu từ thời Nguyễn. Vì nóc gian giữa Đại đình kiểu con chồng giá chiêng, trên các cấu kiện kiến trúc như: con rường, đầu dư… đắp gờ chỉ, hoa lá, rồng mây cách điệu. Trên đỉnh nóc đình đắp nổi hình lưỡng long chầu nguyệt.
- Nhân vật được thờ
Đình Hán Đà tôn thờ hai vị thần là Long thần Lạc Thị (tức Lạc Long Quân, con của Kinh Dương Vương) và thờ danh nhân khoa bảng Nguyễn Đăng, người làng Tỏi Mai, xã Đại Toán, huyện Quế Dương - nay là làng Tỏi Mai, xã Chi Lăng, huyện Quế Võ. Theo các sách Đăng khoa lục, văn bia Văn miếu và các tư liệu ở địa phương thì Nguyễn Đăng liên tiếp đỗ đầu các kỳ thi: thi Hương, thi Hội khoa Nhâm Dần (1602) ông đỗ Hoàng giáp. Sau đó nhà vua mở thêm khoa thi “Ứng chế” kén chọn nhân tài ngoại giao ông lại đỗ đầu nên người đời gọi ông là “Tứ nguyên”. Năm 1613 ông được cử đi sứ sang bang giao với nhà Minh, với tài ứng đối kiệt xuất, vua nhà Minh phong ông là “Trạng nguyên”. Sau cuối đời trí sĩ về quê nhà ông mở trường dạy học tại làng Hán Đà. Sau khi Nguyễn Đăng mất dân làng Hán Đà lập đền thờ phụng gọi là “đền Thánh Trạng” và tôn ông làm phúc thần thờ tại đình và đền để tưởng nhớ muôn đời.
- Các hiện vật tiêu biểu.
| Tên hiện vật | Số lượng | Chất liệu | Niên đại |
| Ngai thờ | 01 | Gỗ sơn | Thời Nguyễn |
| Bài vị | 01 | Gỗ sơn | Thời Nguyễn |
| Hương Án | 01 | Gỗ sơn | TK 21 |
| Sập thờ | 01 | Gỗ sơn | TK 21 |
| Bộ chấp kích | 01 | Gỗ sơn | TK 21 |
| Chân nến | 02 | Đồng | TK 21 |
| Bát hương | 01 | Đồng | TK 21 |
| Đỉnh hương | 01 | Đồng | TK 21 |
| Hạc thờ | 02 | Gỗ sơn | TK 21 |
| Ngựa thờ | 02 | Gỗ sơn | TK 21 |
| Hoành phi | 05 | Gỗ sơn | TK 21 |
| Câu đối | 09 | Gỗ sơn | TK 21 |
- Di sản văn hóa phi vật thể gắn với di tích
Hàng năm lễ hội đình Hán Đà tổ chức vào ngày 11/2 âm lịch. Trước một ngày nhân dân mở cửa đình bao sái đồ tế khí, tế khai hội. Ngày 11 Chính tịch, ban khánh tiết sửa lễ gà, thủ lợn, xôi, trầu rượu, tiền vàng, hương đăng, hoa quả… Đội Tư văn mũ áo chỉnh tề tiến dâng lễ vật thanh khiết hành lễ tế thánh tại đình, với nhiều nghi thức trang nghiêm. Xưa còn có tục rước từ đình ra đền đón thánh về dự hội, sau mãn hội lại rước về đền an vị. Đặc biệt trong lễ hội ở đây có tục “Quý nghĩa” và “môn sinh” với ý nghĩa giáo dục truyền thống tôn sư trọng đạo.
Sau phần lễ rất trang nghiêm phần hội với rất nhiều tục trò dân gian như: Hát quan họ, đấu vật, đấu cờ tướng, bóng đá, chọi gà… Buổi tối còn có giao lưu ca hát, thu hút đông đảo nhân dân và khách thập phương tham gia.
- Công tác bảo vệ, phát huy giá trị di tích
Đình Hán Đà trải qua thời gian được nhân dân quan tâm gìn giữ tôn tạo. Đình chưa thành lập Ban QLDT theo Quyết định 242/2014 của UBND tỉnh. Tuy nhiên di tích đã có tường bao bảo vệ, ô thửa rõ ràng, đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, tránh được sự xâm lấn đất đai. Công tác tuyên truyền quảng bá di tích chủ yếu qua hệ thống loa truyền thanh của thôn của xã.
- Đánh giá giá trị di tích
Giá trị về lịch sử, văn hóa: Đình Hán Đà là nơi diễn ra, nơi lưu giữ nhiều sự kiện lịch sử dân tộc, nhiều kỷ niệm của các thế hệ người dân trong suốt quá trình phát triển. Đình tôn thờ những người có công với triều đình đất nước, mang nhiều giá trị về lịch sử văn hóa.
Đình Hán Đà cùng lễ hội truyền thống và các hoạt động tâm linh tín ngưỡng đã góp phần bảo tồn phát huy những giá trị văn hóa truyền thống, xây dựng tình đoàn kết cộng đồng dân cư.
Giá trị về kiến trúc, nghệ thuật, thẩm mỹ: Đình Hán Đà tuy mới được trùng tu vào những năm gần đây, nhưng trong quá trình tôn tạo, nhân dân địa phương tuân thủ đúng theo lối kiến trúc truyền thống, vẫn giữ được tòa Hậu cung thời Nguyễn, công trình vừa thanh thoát, vừa thâm nghiêm. Các đồ thờ tự chạm khắc sơn thếp đẹp, có giá trị về nghệ thuật, thẩm mỹ.
- Phân loại di tích.
Đình thuộc loại hình di tích lịch sử.
2. Đền Hán Đà
- Lịch sử hình thành
Theo nguồn tư liệu hiện còn ở di tích được biết: đền làng Hán Đà được khởi dựng vào năm Dương Hoà thứ 6 (1640) gần khu nhà Cầu Giáo - nơi xưa Tiến sĩ Nguyễn Đăng đã dạy học. Ngôi đền cổ có kết cấu chữ Nhị với 5 gian Tiền tế và 3 gian Hậu cung tồn tại đến thời kỳ kháng chiến chống Pháp thì bị phá hủy. Đến năm 1993, nhân dân địa phương hưng công xây dựng lại ngôi đền theo kiến trúc cổ xưa, hướng Tây Nam, phía trước là cánh đồng. Năm 2016 trùng tu lại. Hiện đền chỉ có 1 tòa 3 gian.
Đền Hán Đà đã được Bộ Văn hóa Thông tin xếp hạng là di tích lịch sử văn hoá - Quyết định số 154/QĐ - BVHTT, ngày 25/01/1991.
- Cảnh quan môi trường, đất đai.
Đền hiện toạ lạc ở vị trí phía Nam của thôn, mặt đền quay hướng Tây Nam, phía trước là cánh đồng rộng lớn, bên trái là đê sông Đuống, bên phải và phía sau tiếp giáp với khu dân cư. Đền có diện tích 563m2, đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Theo hồ sơ xếp hạng lập năm 1990, tổng diện tích đất khoanh vùng bảo vệ di tích Đền Hán Đà, khu vực II (tô màu xanh) là 10.921 m2.
- Các công trình kiến trúc
Hiện đền Hán Đà có kiến trúc kiểu chữ Nhất, gồm một tòa nhà 3 gian, kiểu bình đầu bít đốc, cột trụ cánh phong. Vì nóc gian giữa kiểu thượng con chồng giá chiêng, hạ cốn ván mê. Trên các cấu kiện kiến trúc như: con rường, câu đầu, đầu dư, cốn… chạm khắc hoa lá, rồng mây cách điệu. Tất cả theo phong cách kiến trúc truyền thống.
- Nhân vật được thờ
Đền Hán Đà thờ danh nhân khoa bảng Nguyễn Đăng, người làng Tỏi Mai, xã Đại Toán, huyện Quế Dương - nay là làng Tỏi Mai, xã Chi Lăng, huyện Quế Võ. Theo các sách Đăng khoa lục, văn bia Văn miếu và các tư liệu ở địa phương thì Nguyễn Đăng liên tiếp đỗ đầu các kỳ thi: thi Hương, thi Hội khoa Nhâm Dần (1602) ông đỗ Hoàng giáp. Sau đó nhà vua mở thêm khoa thi “Ứng chế” kén chọn nhân tài ngoại giao ông lại đỗ đầu nên người đời gọi ông là “Tứ nguyên”. Năm 1613 ông được cử đi sứ sang bang giao với nhà Minh, với tài ứng đối kiệt xuất, vua nhà Minh phong ông là “Trạng nguyên”. Sau cuối đời trí sĩ về quê nhà ông mở trường dạy học tại làng Hán Đà. Sau khi Nguyễn Đăng mất dân làng Hán Đà lập đền thờ phụng gọi là “đền Thánh Trạng” và tôn ông làm Thành hoàng làng thờ tại đền và đình để tưởng nhớ muôn đời.
- Các hiện vật tiêu biểu.
| Tên hiện vật | Số lượng | Chất liệu | Niên đại |
| Bia hành trạng | 01 | Đá | Dương Hòa 6 (1640) |
| Tượng Nguyễn Đăng | 01 | Gỗ sơn | Thời Nguyễn |
| Tượng con gái Nguyễn Đăng | 01 | Gỗ sơn | Thời Nguyễn |
| Tượng bộ hạ | 02 | Gỗ sơn | Thời Nguyễn |
| Hoành phi | 03 | Gỗ sơn | TK 20 |
| Câu đối | 04 | Gỗ sơn | TK 20 |
| Hương án | 01 | Gỗ sơn | TK 20 |
| Bộ bát biểu | 01 | Gỗ sơn | TK 20 |
| Bát hương | 01 | Đồng | TK 20 |
| Chân nến | 02 | Đồng | TK 20 |
- Di sản văn hóa phi vật thể gắn với di tích
Lễ hội truyền thống đền Hán Đà được mở vào ngày 11 tháng 2 âm lịch hàng năm, đặc biệt trong lễ hội ở đây có tục “Quý nghĩa” và “môn sinh” với ý nghĩa giáo dục truyền thống tôn sư trọng đạo. Vào chính lệ nhân dân bản thôn sửa lễ dâng hương cúng thánh tại đền, với nhiều nghi thức cúng tế trang nghiêm. Sau phần lễ là phần hội với các trò chơi dân gian như: Đánh cờ, đấu vật, vui chơi ca hát quan họ…thu hút đông đảo nhân dân và du khách thập phương tham gia.
- Công tác bảo vệ, phát huy giá trị di tích
Đền Hán Đà trải qua thời gian từ khi khởi dựng đến nay vẫn luôn được nhân dân quan tâm gìn giữ tôn tạo. Đền đã thành lập Ban QLDT theo Quyết định 242/2014 của UBND tỉnh. Đất đai của tích có ô thửa rõ ràng, đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, tránh được sự xâm lấn. Công tác tuyên truyền quảng bá di tích chủ yếu qua hệ thống loa truyền thanh của thôn của xã.
- Đánh giá giá trị di tích
Giá trị về lịch sử, văn hóa:
Đền Hán Đà là di tích có từ thời Lê, tôn thờ vị danh nhân khoa bảng, có nhiều công lao với triều đình đất nước và nhân dân bản thôn nơi đây. Đền còn bảo lưu được một số hiện vật mang nhiều giá trị về lịch sử văn hóa. Các hoạt động tâm linh tín ngưỡng tại đền đã góp phần bảo tồn phát huy những giá trị văn hóa truyền thống, xây dựng tình đoàn kết cộng đồng dân cư.
Giá trị về kiến trúc, nghệ thuật, thẩm mỹ:
Đền Hán Đà mới được trùng tu năm 2016 theo dáng vẻ truyền thống, chạm khắc đẹp, một số đồ thờ tự có từ thời Lê - Nguyễn chạm khắc tỉ mỉ, có nhiều giá trị về kiến trúc, nghệ thuật, thẩm mỹ.
- Phân loại di tích.
Đền thuộc loại hình di tích lịch sử.