Đền thờ Nguyễn Cao (Trác Phong linh từ)
- Lịch sử hình thành
Đền vốn được khởi dựng từ thời Nguyễn với quy mô nhỏ, ban đầu chỉ là 1 miếu thờ. Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, bị phá hủy.
Năm 1992, Xây dựng lại đền gồm 2 tòa. Hậu đường chồng diêm, bộ khung betong. Tiền tế 5 gian. Năm 1999: xây nghi môn. Năm 2002: mua bộ khung văn miếu Bắc Ninh về xây dựng lại tòa Tiền tế. Bộ khung cũ tòa Tiền tế chuyển làm nhà khách của di tích. Năm 2006: xây dựng lại hậu cung. Năm 2017: lát sân đền.
Đền thờ Nguyễn Cao đã được xếp hạng cấp Quốc gia, số 3211 QĐ – BT, ngày 12/12/1994.
- Cảnh quan môi trường, đất đai
Đền Nguyễn Cao hiện nằm trên thửa đất số 66, thuộc tờ bản đồ số 33 với tổng diện tích đất là 786m2.
Đền nằm ở đầu làng, thuộc địa phận xóm Dưới. Đền quay hướng Tây. Phía trước giáp cánh đồng, xung quanh giáp khu dân cư. Bên trái đền, cách 50m là đê sông Đuống.
- Các công trình kiến trúc
Hiện đền Nguyễn Cao gồm các hạng mục công trình: Nghi môn; Tiền tế; Hậu đường; các công trình phụ trợ như nhà khách…
Nghi môn: Được xây dạng tứ trụ. 2 trụ chính tạo thành lối đi. Giữa 2 trụ chính với 2 trụ phụ tường lửng, trổ cửa sổ hình chữ Thọ vuông. Trên đỉnh 2 trụ chính đắp hình 4 chim phượng chụm đuôi vào nhau, trụ phụ đắp nghê. Thân trụ đắp nổi các đôi câu đối bằng chữ Hán.
Tiền tế: 5 gian 2 mái tay ngai, cột trụ cánh phong, mái lợp ngói mũi hài, đỉnh nóc đắp lưỡng long chầu nhật. Mặt trước mở cửa 3 gian giữa bức bàn, thượng song hạ bản, 2 gian hồi trổ cửa sổ hình chữ Thọ tròn. Bộ khung chịu lực bằng gỗ gồm 6 bộ vì 5 hàng chân cột, chủ yếu bào trơn đóng bén không trang trí hoa văn. 6 bộ vì có kết cấu tương tự nhau, vì nóc giá chiêng trụ cột trốn, vì nách kẻ ngồi.
Hậu đường: Nằm song song với Tiền tế là 3 gian Hậu cung, 2 mái cột trụ cánh phong. Tường hồi và Hậu xây kín, phía trước để cửa cả 3 gian, thượng song hạ bản. Bộ khung chịu lực bằng gỗ, 4 bộ vì, mỗi bộ vì 3 hàng chân cột, trốn cột cái phía trước. 2 bộ vì gian giữa vì nóc giá chiêng chồng rường, vì nách kẻ ngồi, 2 bộ vì gian hồi vì nóc giá chiêng chồng rường, vì nách ván mê chạm khắc tứ quý. Trong Hậu cung có 3 ban thờ, ban thờ gian giữa đặt hương án, 2 ban thờ gian bên bệ thờ xây gạch.
- Nhân vật được thờ
Nguyễn Thế Cao còn gọi là Nguyễn Cao hay “Quan Tán Cách Bi”, sinh năm Đinh Dậu (1837) tại làng Cách Bi, xã Cách Bi, huyện Quế Võ, tỉnh Hà Bắc. Ông nội làm quan huấn đạo, thân phụ là Nguyễn Thế Hanh (1810-1840), làm tri huyện Thanh An, Tiên Minh, Thủy Đường, và mất năm 31 tuổi tại Thủy Đường. Thân mẫu là Nguyễn Thị Điềm, thuộc dòng họ Nguyễn Đức (gốc làng Quế Ổ, xã Chi Lăng, Quế Võ) - một người đàn bà có nhan sắc, đức hạnh. Sau khi chồng mất, bị bọn cường hào cưỡng bức, bà thấy thế làm nhục, nghĩ mình thất tiết với chồng nên đã tự cắt vú tự tử. Nguyễn Cao sớm mồ côi cha mẹ, nên chỉ tự lập, học hành siêng năng.
Được sự dạy dỗ của những thày giáo nổi tiếng thời đó - là phó bảng Nguyễn Phẩm và hoàng giáp Phạm Văn Nghị. Hai vị thầy học này, đặc biệt là Phạm Văn Nghị đã góp phần to lớn truyền thụ cho Nguyễn Cao, không chỉ kiến thức nho học mà còn bồi dưỡng cho ông cả tinh thần yêu nước thương dân, kiên trung bất khuất. Nguyễn Thế Cao đã thi đậu giải nguyên khoa thi năm Đinh Mão (1867). Sau khi thi đỗ, Nguyễn Cao không ra làm quan ngay mà xin về quê mở trường dạy học, đào tạo nhân tài cho quê hương đất nước.
Trong cuộc xâm lược Bắc Kỳ lần thứ nhất, tháng 11 năm 1873, giặc Pháp từ Hà Nội đã đánh chiếm Gia Lâm, Siêu Loại. Nguyễn Cao lãnh đạo nhân dân Bắc Ninh đứng lên đánh giặc giữ nước. Khi triều đình nhà Nguyễn ký hòa ước với Pháp, Nguyễn Cao đã cáo bệnh trở về quê để chờ cơ hội. Bấy giờ, các tỉnh ở miền Bắc nước ta luôn bị những toán thổ phỉ địa phương và Trung Quốc sang quấy nhiễu, làm cho đời sống nhân dân bất yên. Nguyễn Cao đã tham gia đánh dẹp, phòng giữ cho dân, lập được nhiều thành tích. Sau đó Nguyễn Cao được triều đình bổ nhiệm chức tri huyện Yên Dũng, rồi tri phủ Lạng Giang. Tiếp đó ông lại xin đi khai khẩn đồn điền ở Nhã Nam, Phú Bình để mưu lợi cho dân, cho nước.
Năm 1882, Pháp đánh Bắc Kỳ lần thứ 2, với tấm lòng yêu nước thiết tha và căm thù giặc sâu sắc, Nguyễn Cao đã kịp thời đứng lên tập hợp dân chúng kéo về vùng ven Hà Nội chống Pháp. Trận tấn công của nghĩa quân Bắc Ninh do Nguyễn Cao chỉ huy tại Gia Lâm ngày 10/4 năm Tự Đức thứ 35 (26.5.1882) là một trận đánh tiêu biểu của nghĩa quân. Trong trận này ông bị thương nặng nhưng vẫn chỉ huy chiến đấu động viên nghĩa quân.
Sau đó, năm 1886 Nguyễn Cao về hoạt động ở vùng Mỹ Đức, Ứng Hòa (Hà Tây). Ngày 27.3.1887 giặc Pháp bắt được ông tại làng Kim Giang. Chúng đã tìm đủ mọi cách dụ dỗ nhưng ông đều cự tuyệt. Nguyễn Cao đã rạch bụng tuẫn tiết, giặc lại cho chạy chữa, nhưng ông lại cắn lưỡi nhổ máu vào mặt chúng mà chửi mắng. Do không khuất phục được ông, giặc Pháp đã chém đầu ông tại Vườn Dừa (Bắc Hồ, Hoàn Kiếm - Hà Nội) ngày 14.4.1887 bêu đầu ở các phố để lung lạc ý chí của dân chúng.
- Các hiện vật tiêu biểu
02 hoành phi, chất liệu gỗ, niên đại TK XX
05 câu đối, chất liệu gỗ, niên đại TK XX
01 câu đối tiếng Việt, chất liệu gỗ, niên đại TK XX
02 ngai, chất liệu gỗ, niên đại TK XX
02 bài vị, chất liệu gỗ, niên đại TK XX
02 hương án, chất liệu gỗ, niên đại TK XX
- Di sản văn hóa phi vật thể gắn với di tích
Ngày 21 tháng Ba: là ngày hội của đền, ngày mất của cụ Nguyễn Cao. Vào ngày này, có đội tế của làng tổ chức tế tại di tích. Sau phần tế là phần hội được tổ chức với các trò như: đấu vật, cờ tướng… các hình thức văn hóa mới như thể dục dưỡng sinh, buổi tối tổ chức hát văn nghệ tại sân đền
Ngoài ra, tại di tích vào các ngày đình đám của làng, ngày mùng 1, ngày rằm, ngày Tết, ngày giỗ cụ Nguyễn Cao dân làng thường ra đền tế lễ với lễ vật là xôi gà, thủ lợn, hoa quả, thể hiện truyền thống đạo lý tốt đẹp của dân tộc, biết ơn và tri ân với những người có công với dân với nước.
- Công tác bảo vệ, phát huy giá trị di tích
Di tích đã thành lập ban quản lý di tích theo quy định. Hàng ngày, có 01 cụ từ trông nom tại di tích, là cháu đời thứ 5 của cụ Nguyễn Cao. Di tích nằm trên một khuôn viên rộng, thoáng, đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, có tường bao quanh khuôn viên. Hiện trạng công trình còn khá tốt. Di tích đã được lập quy hoạch tổng thể, với quy mô rộng gồm nhiều hạng mục công trình.
Bên cạnh đó, địa phương cần có các biện pháp để quảng bá giá trị di tích như: làm biển chỉ dẫn vào di tích, xây dựng hệ thống bảng biểu giới thiệu về di tích, giới thiệu về công trạng của cụ Nguyễn Cao treo tại di tích…Bổ sung đồ thờ tự vào di tích. Di tích chưa được trang bị hệ thống camera giám sát an ninh, hệ thống PCCC, chưa được cắm mốc giới theo quy định đối với các di tích đã xếp hạng. Diện tích khoanh vùng theo hồ sơ xếp hạng rộng hơn diện tích được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hiện nay.
- Đánh giá giá trị di tích
Giá trị về lịch sử, văn hóa: Đền thờ Nguyễn Cao là công trình văn hóa tín ngưỡng của nhân dân địa phương, nơi thờ cụ Nguyễn Cao, là biểu tượng của tinh thần yêu nước, là niềm tự hào của nhân dân địa phương nói riêng và tỉnh Bắc Ninh nói chung.