Lăng và nhà thờ 18 quận công

1. Lăng 18 Quận công (họ Nguyễn Đức)

- Lịch sử hình thành:

Do cụ Quế Quận công xây dựng nên vào năm 1703. Trải thăng trầm lịch sử lăng vẫn tồn tại đến ngày nay.

Năm 2002 nhân dân xây dựng khu lăng bia gồm 2 tầng 8 mái và cổng.

Năm 2007, xây dựng nhà Hậu đường phía sau lăng.

Lăng và nhà thờ 18 vị quận công họ Nguyễn Đức đã được xếp hạng là Di tích Lịch sử và nghệ thuật theo Quyết định số 138/QĐ ngày 31/12/1992.

- Cảnh quan môi trường, đất đai:

Khu lăng hiện nằm ở giữa làng, trên một khu đất cao, quay hướng Tây Nam, khuôn viên rộng rãi, thoáng đãng với vườn tược và nhiều cây xanh.

Khu lăng chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, đã xây tường bao quanh khuôn viên, có hồ sơ thửa đất.

- Các công trình kiến trúc:

 Lăng hiện bao gồm các công trình: Cổng, Lăng bia,  nhà Hậu đường. Và cổng.

Sự bài trí các hạng mục công trình, hiện vật trong lăng nhìn từ cổng trở vào: Một đôi ngựa đá, đến đôi voi đá – vị trí đăng đối nhau qua đường thần đạo chạy vào ban thờ và bia đá. Ngựa đá được thể hiện ở tư thế đứng trên bệ, có đầy đủ yên cương, chuông nhạc, miệng đóng hàm thiếc. Trên thân ngựa được phủ một vạt “vải” có trang trí những diềm hoa nhỏ. Lớp trên là bàn đạp thúc ngựa. Các khoảng trống từ bụng ngựa xuống bệ đứng vẫn liền trong một phiến đá; ở đây thể hiện rõ kỹ thuật chạm nổi. Nhìn chung các bộ phận của ngựa đá đều được chạm khác rất kỹ lưỡng, đường nét mềm mại uyển chuyển. Đôi voi đá ở vị trí cách đôi ngựa 4m, cũng ở tư thế chầu vào nhau. Voi phục trên bệ đá hình chữ nhật. Toàn khối bệ và voi liền một khối đá. Tư thế voi nằm phủ phục vòi cuộn lại, 2 ngà nhỏ, mắt hẹp, tai rộng hình quạt gồm 8 cánh lá xếp lại; 2 lỗ hình xoáy trôn ốc khá rộng. Đuôi nhỏ vắt cong vào mông trông vừa mềm mại vừa chắc khỏe.

Nổi bật trong khu lăng là tấm bia đá lớn, trán bia được chạm nổi hình “Lưỡng long chầu nguyệt”, diềm và đế cũng được chạm nổi hình rồng, mây cuộn rất công phu nghệ thuật. Chính giữa bia khắc nổi những dòng chữ Hán lớn nội dung: “Phụng sai Đề lĩnh tứ thành quân vụ sự kiêm Lạng Sơn, Hải Dương, An Quảng, đẳng sứ trấn thủ quan, hậu nội cơ tham đốc Quế Quận công Nguyễn Đức Uyên bi”, bia dựng khắc năm 1708. Năm 2002, dòng họ đã cho xây dựng 1 nhà che bia 2 tầng 8 mái đao cong bằng chất liệu hiện đại betong, cốt thép, 4 góc có 4 cột, xung quanh để trống không xây tường bao

Phía sau Lăng bia là nhà Nhà thờ Đề lĩnh Quế Quận công – người có công mang đồ đá về tôn tạo khu lăng tạo nên những tác phẩm đá độc đáo như ngày nay, xây dựng năm 2007. Nhà thờ có kiến trúc hình chữ Đinh gồm 5 gian Tiền đường cột trụ cánh phong và 1 gian Hậu cung, bộ khung gỗ được chạm khắc trang trí đơn giản.

- Nhân vật được thờ:

Lăng 18 vị quận công họ Nguyễn Đức là nơi tưởng niệm 18 vị Quận công họ Nguyễn Đức. Họ Nguyễn Đức là một gia tộc, dòng chính (đại tôn) ở Quế Ổ xã Chi Lăng, gia tộc có nhiều quan võ nhất của quê hương và đất nước với 18 vị quận công, trong đó có nhiều vị được phong làm thành hoàng làng, 3 vị phong vương, 5 vị đỗ tạo sĩ, 76 vị được phong tước hầu. Danh sách 18 vị quận công bao gồm:

+ Vị quận công thứ nhất: Thân Quận công, hiệu Thân không tướng quân – người là tiền Lê triều đặc tiến phụ quốc thượng tướng quân. Giữ chức thượng tướng quân như là những võ quan có phẩm trệt ở hàng chánh ngũ phẩm.

+ Tài quận công: Cụ là tiền Lê triều đặc tiến phụ quốc thượng tướng quân, lưỡng quân đô đốc phu, tả đô đốc thái phó Tài quận công húy Đức Tín, tự Đại chí, hiện nay dòng họ tổ chức giỗ tổ vào ngày mất của cụ 2-11.

+ Tuyên quận công: Cụ sớm có tài và cũng sớm được làm quan, được vua khen là người trung hậu cầm quyền đô đốc làm phụ thạch Nhà nước, vua gả “Thanh châu công chúa” cho. Cụ là tiền Lê triều phụ quốc thượng tướng quân, đô đốc thiềm sự tặng phong chức thái bảo, húy Đức Vong tự thiên đạo, thụy Phúc nham, thọ 44 tuổi.

+ Hào quận công: Cụ là con thứ 2 Tuyên quận công thuộc giáp Chi – là tiền Lê triều đặc tiến phụ thượng tướng quân, đô đốc phủ, tặng phog thiếu bảo, gia phong thái phó Hào quận công, húy Đức Nghiệp, tự uy dũng, thụy khoan hậu, cụ có 23 vợ và 42 người con.

+ Siêu quận công: Cụ là con trưởng Hào quận công là thị vệ sử Siêu quận công, húy Đức Tước, tự Thao Quảng, thụy Minh Triết. Cụ có 3 vợ 6 con trai, ông Đức Khang là con thứ 5 tức Khuynh Hữu hầu làm tả đô kiểm sinh 7 con trai. Các con cụ phần lớn trước truy phong tước hầu.

+ Thụy quận công: Cụ là con thứ 2 Hào quận công cụ húy Đức Trung, thụy đức Nhậm, chức đô đốc đồng tri phủ tư phấn cường.

+ Hương quận công: là con thứ 6 Hào quận công húy Đức Trạch, làm quan đô đốc có 2 con trai là phó cai đội thú vũ hầu húy Đức Dụng và tránh đội trưởng Miện đường hầu húy Đức Thục.

+ Hiểu Quận công: Cụ húy Đức Uông là tiền Lê triều đặc tiến phụ quốc thượng tướng quân, bắc quân đô đốc phủ, tả đô đốc đại tư đồ, thiếu bảo Hiểu quận công, sau gia phong đương vũ kiệt tiết công thần và truy phong trung cảm dũng nghĩa anh thanh phương liệt hùng tài tráng tiết đại vương, tự dịch nghị, thụy trung dũng.

+ Bá Quận công: Cụ là hoài viên tướng quân, đô chỉ huy sứ tư đô chỉ huy thiêm sự Bá trung hùng, sau được phong phụ quốc thượng tướng quân, thần vũ tử vệ quan vụ tham đốc Bá quận công tướng công, tự cương nghị, thụy chế độ phủ quận thọ 29 tuổi.

+ Hội quận công: Cụ húy Đức Thân, tự là điều làm quan đô chỉ huy sứ tước quận công, sau được tặng phong tước đại vương trung đẳng phúc thần.

+ Ánh quận công: Cụ húy Đức Vịnh – con thứ 3 Hiều quận công, con bà Hoàng Quý thị hiệu Từ Khâu – hậu thân ở làng cụ giỗ ngày 24/7.

+ Hùng quận công (ất chi).

Cụ là con thứ 3 Tài quận công, húy Đức Diện tên là Đạt, thụy Hùng Lình, tự thắng chí, cụ được phong làm phụ quốc thượng tướng quân, hữu đô đốc tặng phong thái bảo Hùng quận công. Cụ tài danh nhất đời theo quốc vương đánh giặc thường lập được nhiều công lợi làm bắc quân đô đốc thọ 59 tuổi. Cụ sinh con trai là Cấm quận công, Đặng quận công, Đình Vinh hầu, Mai lương hầu.

+ Đặng quận công: Cụ húy Đức Dương tự trực chiến, hụy Phúc Cao cụ làm tham đốc tước phong Đặng quận công – táng tại xã Cang Kiêm giỗ 19/2. Cụ có công lớn trong việc đánh giặc giữ nước, nhưng do chủ quan và cũng do ảnh hưởng thời thế lúc bấy giờ cụ đã bị kết tội.

+ Cấm quận công: Cụ húy Đức Thận, tự cương nghị, thụy phảng úy là con thứ 2 Hùng quận công, cụ làm đội bắc quân thự vệ Sự cảm quận công. Hiện nay mộ cụ được đem về lăng Dũng Quyết. Mộ cụ bà Nguyễn Thị Thứ hiệu Từ tiết táng tại Đồng Lương – Dũng Quyết. Cụ sinh 2 con là Ân quận công và phúc hầu.

+ Ân quận công: Cụ húy Đức Nhuận, tự Trung Lương, thụy Kiên dũng, là phụ quốc tướng quân thiêm sự tước Ân quận công được truy phong tước đại vương trung đẳng phúc thần, đồng thời cũng được phong làm thành hoàng làng Dũng quyết ngang với đức thánh Tam Giàng, cụ hy sinh vì dân vì nước.

+ Quế quận công: Cụ là Đức Uyên, húy Huyền, tự trang nghiêm, thụy Trung dũng phủ quận. Cụ làm Đề lĩnh tử thành quân sự vụ kiêm trấn thủ Lạng Sơn, Hải Dương, An Quảng, hậu nội cơ cai, cơ tham đốc, tả đô đốc, tước Quế quận công.

+ Chiêm quận công: Húy Đức Trị cụ là con thứ 5 Ân quận công – cụ làm thư vệ tự tước Chiêm quận công thọ 50 tuổi. Cụ sinh 2 trai: Đức ôn thi trúng tặc sỹ tước giao quận công thế Vũ hầu – chỉ huy đồng tri.

+ Nhậm quận công: Cụ là Đức Dật, húy Anh, tự khoan lăng là con trưởng Quế quận công làm quan phụ quốc thượng tướng quân, Cấm uy vệ chỉ huy sứ, tặng phong tả đề diêm tham đốc Nhậm quận công.

- Các hiện vật tiêu biểu:

01 bia đá, niên đại 1708

01 đôi ngựa, chất liệu đá, niên đại thời Lê

01 đôi voi, chất liệu đá, niên đại thời Lê

03 tượng, chất liệu gỗ, niên đại TK XXI

01 ngai, chất liệu gỗ, niên đại thời Nguyễn

02 hoành phi, chất liệu gỗ, niên đại thời Nguyễn

01 đôi câu đối, chất liệu gỗ, niên đại thời Nguyễn

- Di sản văn hóa phi vật thể gắn với di tích:

Trong một năm, tại Nhà thờ có các ngày Giỗ sau:

Ngày 15/Giêng: Ngày Giỗ chung các vị Quận công

Ngày 9/2 âm lịch: Giỗ cụ Tuyên (con cả cụ Tổ)

Ngày 27/8 âm lịch: Giỗ Thụy Quận công

Ngày 2/11 âm lịch: Giỗ Tổ

Vào các ngày giỗ này, con cháu tổ chức tế lễ tại nhà thờ sau đó tổ chức ăn giỗ tại khu lăng.

Ngoài ra, vào các ngày tuần rằm mồng một, các ngày xuân thu nhị kỳ con cháu thắp hương tại lăng và nhà thờ.

- Công tác bảo vệ, phát huy giá trị di tích:

Lăng họ Nguyễn Đức được khởi dựng cách ngày nay gần 300 năm. Vốn trước đây cả công trình này đều khang trang sầm uất – có nhiều cây cổ thụ. Trải qua bao bước thăng trầm của lịch sử quê hương và đất nước đến nay cả di tích đã có nhiều biến đổi. Tuy nhiên vẫn luôn được nhân dân và con cháu trong dòng họ quan tâm trùng tu tôn tạo ngày càng khang trang tố hảo. Ngoài Ban quản lý di tích địa phương theo quy định của Nhà nước, hiện nay lăng do con cháu trong dòng họ (trưởng họ đời thứ 20 của dòng họ) trực tiếp trông nom, bảo vệ, hương khói thờ phụng tổ tiên. Đã được xây dựng tường bao bảo vệ tránh sự xâm lấn.

Bên cạnh đó còn một số tồn tại như: di tích chưa được trang bị trang thiết bị PCCC, chưa có hệ thống camera giám sát an ninh, chưa được quy hoạch tổng thể. Lăng chưa được cắm mốc giới theo quy định của Luật Di sản. Khu lăng, địa phương và dòng họ cần có kế hoạch quy hoạch hệ thống bia công đức mới, tạo không gian rộng thoáng cho di tích

- Đánh giá giá trị di tích:

Giá trị về lịch sử, văn hóa: Lăng 18 vị Quận công là nơi thờ phụng tưởng niệm tập trung nhất về các danh nhân họ Nguyễn Đức – đặc biệt là 18 vị quận công. Các tài liệu hiện vật hiện còn ở đây là những minh chứng đầy đủ, chính xác về các danh nhân trong gia tộc nói chung và những con người cụ thể nói riêng.

Giá trị về kiến trúc, nghệ thuật, thẩm mỹ: ngoài giá trị nội dung về mặt lịch sử - mang tính chất lưu niệm về các danh nhân – võ quan, giá trị nghệ thuật ở đây cũng tương đồng và mang ý nghĩa nghiên cứu giáo dục thẩm mỹ vô cùng sâu sắc. Đặc biệt là công trình lăng đá thời Lê ở đây – còn lưu giữ được nhiều hiện vật, như bia đá, bệ đá, voi đá, ngựa đá… là những tác phẩm nghệ thuật độc đáo mà ít nơi có được.

- Phân loại di tích:

Loại hình: Di tích Lịch sử và Nghệ thuật

2 Nhà thờ 18 Quận công (họ Nguyễn Đức)

- Lịch sử hình thành:

Nhà thờ được xây dựng từ rất sớm. Đến nay không có tư liệu nào ghi chính xác về việc khởi dựng nhà thờ họ (lần đầu) vào thời gian nào, nhưng trong ký ức của các thành viên trong họ hiện nay còn nhớ rằng nhà thờ họ vốn được xây dựng từ đời cụ thủy tổ. Trải các đời con cháu kế tiếp trong họ - có nhiều người là công hầu khanh tướng, cho nên đền từ của gia tộc cũng ngày một khang trang. Nhưng cũng chính vì ở đây có nhiều võ quan như vậy, mà trong thời kỳ khủng hoảng của chế độ phong kiến Việt Nam thế kỷ XVII, XVIII – nhiều cuộc đụng độ giữa 2 tập đoàn phong kiến Trịnh – Nguyễn đã diễn ra ở đây. Cho nên các công trình tín ngưỡng văn hóa ở đây nói chung và nhà thờ họ Nguyễn Đức nói riêng đã bị tàn phá nặng nề. Thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, năm 1951, 1952 lại diễn ra một cuộc chiến đấu lớn ở Quế Ổ - Chi Lăng giữa ta và địch. Vì vậy, nhà thờ đã bị tàn phá.

Sau khi hòa bình được lập lại ở miền Bắc – năm 1957, gia tộc Nguyễn Đức mới lại tu bổ xây dựng cho công trình nhà thờ của họ mình. Năm 1993 xây dựng tòa Tiền tế. Năm 2016, tu bổ tòa Hậu đường, phá bỏ tòa Tiền tế (bộ khung hiện để tại nhà Hậu đường khu lăng).

Lăng và nhà thờ 18 vị quận công họ Nguyễn Đức đã được xếp hạng là Di tích Lịch sử và nghệ thuật theo Quyết định số 138/QĐ ngày 31/12/1992.

- Cảnh quan môi trường, đất đai:

Nhà thờ nằm ở trung tâm của làng, cách khu lăng 500m, quay hướng Nam, bốn xung quanh là khu dân cư, bên trái là nhà ở của gia đình.

Nhà thờ đều đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, đã xây tường bao quanh khuôn viên.

- Các công trình kiến trúc:

Nhà thờ có kiến trúc hình chữ Nhất gồm 5 gian. Kiến trúc theo kiểu “bình đầu bít đốc tay ngai cột trụ cánh phong”, cửa mở ở 3 gian giữa, hệ thống cửa bức bàn “thượng song hạ bản”, hai gian bên trổ cửa sổ hình chữ Thọ. Bộ khung Nhà thờ được làm chất liệu hiện đại betong sơn trang trí giả gỗ. Vì nóc giá chiêng, vì nách kẻ ngồi, trốn 2 hàng cột cái. Toàn bộ đồ thờ tự mới được bổ sung tạo tác sơn son thếp vàng lộng lẫy.

Phía trước nhà thờ là khoảng sân hẹp, lát gạch đỏ. 3 gian giữa có 5 bậc thềm ốp đá xẻ dẫn xuống sân, 2 bên có đôi rồng trong tư thế bò xuống. xung quanh nhà thờ tường bao bổ cột xây tường lửng, phần mũ tường dán ngói. Cổng xây dựng bằng chất liệu hiện đại, betong cốt thép, 4 mái đao cung, mái dán ngói.

- Nhân vật được thờ:

Lăng và nhà thờ 18 vị quận công họ Nguyễn Đức là nơi thờ cúng tổ tiên của dòng họ. (xem phần lăng 18 vị Quận công)

- Các hiện vật tiêu biểu:

01 bản gia phả chữ Hán

05 tượng, chất liệu gỗ, niên đại TK XXI

02 ngai, chất liệu gỗ, niên đại TK XXI

03 hoành phi, chất liệu gỗ, niên đại TK XXI

02 đôi câu đối, chất liệu gỗ, niên đại TK XXI

- Di sản văn hóa phi vật thể gắn với di tích:

Trong một năm, tại Nhà thờ có các ngày Giỗ sau:

Ngày 15/Giêng: Ngày Giỗ chung các vị Quận công

Ngày 9/2 âm lịch: Giỗ cụ Tuyên (con cả cụ Tổ)

Ngày 27/8 âm lịch: Giỗ Thụy Quận công

Ngày 2/11 âm lịch: Giỗ Tổ

Vào các ngày giỗ này, con cháu tổ chức tế lễ tại nhà thờ sau đó tổ chức ăn giỗ tại khu lăng.

Ngoài ra, vào các ngày tuần rằm mồng một, các ngày xuân thu nhị kỳ con cháu thắp hương tại lăng và nhà thờ.

Bên cạnh đó, vào đầu tháng 9 dương lịch hàng năm, sẽ tổ chức trao thưởng khuyến học cho con em trong dòng tộc tại nhà thờ.

- Công tác bảo vệ, phát huy giá trị di tích:

Nhà thờ họ Nguyễn Đức có lịch sử khưởi dựng từ lâu đời, nhiều hạng mục xây dựng rất bề thế. Trải qua bao bước thăng trầm của lịch sử quê hương và đất nước  nhà thờ vẫn luôn được nhân dân và con cháu trong dòng họ quan tâm trùng tu tôn tạo ngày càng khang trang tố hảo. Ngoài Ban quản lý di tích địa phương theo quy định của Nhà nước, hiện nay lăng và nhà thờ do con cháu trong dòng họ (trưởng họ đời thứ 20 của dòng họ) trực tiếp trông nom, bảo vệ, hương khói thờ phụng tổ tiên. Nhà thờ đều đã được xây dựng tường bao bảo vệ tránh sự xâm lấn.

Bên cạnh đó còn một số tồn tại như: di tích chưa được trang bị trang thiết bị PCCC, chưa có hệ thống camera giám sát an ninh, chưa được quy hoạch tổng thể. Lăng và nhà thờ chưa được cắm mốc giới theo quy định của Luật Di sản. Địa phương chưa có hình thức quảng bá giá trị di tích như làm biển chỉ dẫ vào di tích, làm bảng giới thiệu về di tích treo tại nhà thờ.

- Đánh giá giá trị di tích:

Giá trị về lịch sử, văn hóa: Nhà thờ này là nơi thờ phụng tưởng niệm tập trung nhất về các danh nhân họ Nguyễn Đức – đặc biệt là 18 vị quận công, có nhiều công lao với quê hương đất nước, được nhiều nơi thờ làm phúc thần. Các tài liệu hiện vật hiện còn ở đây là những minh chứng đầy đủ, chính xác về các danh nhân trong gia tộc nói chung và những con người cụ thể nói riêng. Đó là các bản gia phả, phả đồ, câu đối, hoành phi, bia đá nội dung phản ánh chung về gia tộc Nguyễn Đức.

- Phân loại di tích:

Loại hình: Di tích Lịch sử